Yêu cầu đối với các doanh nghiệp viễn thông
Hội thảo về OTT được đánh giá là chủ đề "nóng" vấn được sự chú ý của dư luận. Từ đầu năm đến nay, OTT đã phát triển khá mạnh tại Việt Nam với gần chục doanh nghiệp tham chiến, doanh nghiệp trong và ngoài nước. Chỉ riêng Viber đã tuyên bố sẽ có tới 10 triệu thuê bao tại Việt Nam vào cuối năm nay. Mới đây, Viber đã bổ sung một vài tính năng mới cho áp dụng cùng tên trên Android và iOS có tính năng mới gọi là push-to-talk cho phép người dùng gửi một đoạn âm thanh thu thanh giọng nói tới bạn bè, bên cạnh gửi tin văn bản và hình ảnh. Ngoại giả, Viber bổ sung nhiều gói sticker (hình dễ thương) có cả miễn phí lẫn trả phí cho người dùng, nhiều tùy chọn tùy biến trên iOS và cải thiện hệ thống thông báo trên Android. Thực tiễn, tại thị trường Việt Nam Viber vẫn đang là "người dẫn đầu". Sự lớn mạnh mau chóng của dịch vụ OTT đã khiến nhà mạng trên toàn cầu thất thu.
Phát biểu tại buổi hội thảo, ông Nguyễn Phong Nhã - Phó Cục trưởng Cục Viễn thông cho biết, tính đến tháng 9 năm 2013 Việt Nam có 130 triệu thuê bao di động trong đó có 19 triệu thuê bao 3G. Các mạng di động đã đầu tư mạnh cho dịch vụ 3G và cung cấp dịch vụ với giá cả hợp. Tuy nhiên, dịch vụ OTT đang phát triển mạnh trên hạ tầng 3G và thay đổi lề thói dùng của khách hàng. Đây cũng là thách thức cho nhà mạng và mở ra cơ hội cho nhà cung cấp nội dung. Ông Nhã cho rằng các chính sách quản lý dịch vụ OTT cần được coi xét, bàn luận tiếp trước khi đưa ra quyết định cụ thể trong thời kì tới.
Ông Trần Tuấn Anh - Trưởng phòng Cơ chế chính sách của Cục Viễn thông đưa ra con số phát triển thuê bao OTT khá mạnh mẽ. Giả dụ tháng 1/2012 thì Việt Nam mới có 0,048 triệu thuê bao và đến tháng 8/2013 là 3,6 triệu thuê bao. Trong đó, Viber đang là nhà cung cấp có số lượng thuê bao lớn nhất với trên 50% thị phần. Dịch vụ OTT đã làm ảnh hưởng đến không chỉ các nhà mạng của Việt Nam mà còn trên toàn cầu như: Vodafone là 7,6%, Telefonika là 6,5%, Orange là 5,7%... Năm 2012, OTT đã làm thất thu của nhà mạng toàn cầu 8 tỷ USD và đến năm 2015 là gần 20 tỷ USD. Ý kiến của Việt Nam là phải làm sao phát triển thị trường viễn thông vững bền, duy trì cạnh tranh và nhà mạng phải bảo đảm tái đầu tư cho hạ tầng. Bộ TT&TT cũng ra chỉ thị cho các doanh nghiệp viễn thông hợp tác với các doanh nghiệp OTT để cung cấp dịch vụ cho khách hàng.
Phát biểu về mô hình hợp tác giữa nhà mạng và nhà OTT, ông Denis Brunetti - Phó Tổng giám đốc Công ty Ericsson Việt Nam cho rằng, mọi dịch vụ cần đạt được chất lượng về dịch vụ, có những gói dịch vụ khác nhau cho các phân khúc khách hàng khác nhau; đồng thời dịch vụ đó phải thông minh, đơn giản tiện lợi cho người sử dụng và độ tin tưởng cao. Từ kinh nghiệm của các thị trường Châu Âu và Châu Mỹ, việc xây dựng những gói cước đa dạng, phối hợp dịch vụ nhắn tin và dịch vụ dữ liệu đã mang lại sự tăng trưởng. Thí dụ như với nhà mạng AT&T, việc cung cần thiết bị kết hợp các gói cước về dịch vụ dữ liệu đã mang tới kết quả tăng trưởng 8,5% về doanh thu. Mạng Verizon cũng ứng dụng những gói cước khác nhau giúp tăng trưởng doanh thu 14,5%. Đây là tuổi mở đầu cho rất nhiều bước tiếp theo. Bởi vậy, việc các bên cùng ngồi với nhau gồm các nhà hoạch định chính sách viễn thông, nhà mạng, nhà cung cấp dịch vụ OTT, các công ty cung cấp giải pháp như Ericsson là điều kiện để đưa ra những sáng kiến khai triển việc này. Nguyên tắc căn bản là các bên cùng có lợi, có điều kiện phát triển cộng sinh.
Cần có quy định pháp lý trước sự phát triển của OTT
Phát biểu tại buổi hội thảo, ông tử quy Anh - Trưởng Ban Viễn thông của VNPT cho biết, smartphone đang phát triển mạnh kèm với đó dịch vụ OTT đang ảnh hưởng lớn đối với nhà mạng. OTT qua mạng Wi-Fi và 3G sẽ rất khó quản lý về mặt an ninh bởi nếu bị lợi dụng thì các thông tin có thể lan nhanh qua dịch vụ này. Theo thống kê của Oum thì thoại và SMS miễn phí đang ảnh hưởng từ 9 - 10% doanh thu của nhà mạng. Ông tử quy Anh cũng cho rằng các nhà mạng sẽ phải hiệp tác với một đôi doanh nghiệp OTT theo hình thức đôi bên cùng có lợi.
Theo ông Nguyễn Đình Chiến - Phó giám đốc điều hành MobiFone, cần có mô hình win - win để phát triển dịch vụ OTT. Thoại trên OTT hay thoại trên GSM đều giống nhau bởi vậy OTT cũng phải có giấy phép cung cấp dịch vụ thoại, bị quản lý giá bán, quản lý chất lượng cũng như không được phép bù chéo dịch vụ giống như các telco. "Cần phải có sân chơi rõ ràng, nếu không sẽ không có nhà mạng nào muốn đầu tư vào mạng 4G".
Cũng đề cập đến vấn đề này, ông Nguyễn Việt Dũng - Trưởng phòng kinh dinh của Viettel cho rằng, OTT đang có điều kiện phát triển tốt ở Việt Nam vì chưa bị quản lý và ở trong điều kiện cước 3G quá rẻ còn Wi-Fi miễn phí khắp nơi. Hiện tỷ lệ smartphone chiếm tới 40% tổng số điện thoại của Việt Nam nên OTT có điều kiện tăng trưởng mạnh. Nếu so với các sản phẩm OTT nước ngoài thì sản phẩm trong nước thua kém tranh và chưa đa dạng. Các sản phẩm trong nước giao hội chủ yếu vào thoại và SMS miễn phí nên bị hạn chế nếu xét về dài hạn. Việt Nam chưa có khung pháp lý hợp cho OTT như lăng xê, chất lượng dịch vụ, tin nhắn rác, bí ẩn thông báo khách hàng... Do vậy, Việt Nam cần có quy định pháp lý về vấn đề này. Trước sự phát triển của OTT, nhà mạng phải thích ứng và chuyển đổi mô hình kinh doanh từ kinh doanh thoại sang phi thoại. Các nhà cung cấp viễn thông sẽ chuyển thành các nhà cung cấp Internet di động. Viettel sẵn sàng hiệp tác với nhà OTT để cung cấp cho khách hàng những giá trị mới. Mặc dù không thể bóc tách được một cách chính xác, song qua theo dõi, Viettel nhận thấy doanh thu trên các thuê bao 3G sử dụng smartphone có cài đặt các áp dụng OTT thường giảm khoảng 15% -20% trên 1 thuê bao.
Qua cuộc trao đổi bàn tròn, doanh nghiệp hạ tầng đã có thêm thời cơ xác định được hướng đi cho doanh nghiệp mình nhằm tạo nguồn doanh thu mới để tái đầu tư xây dựng hạ tầng viễn thông càng ngày càng đương đại, vững chắc; các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ hoạt động ổn định và hiệp tác chém đẹp với các doanh nghiệp hạ tầng để cung cấp dịch vụ chất lượng tốt cho người sử dụng; cơ quan quản lý viễn thông trên cơ sở quan điểm đề xuất của các doanh nghiệp có thể thu thập được những thông tin cần thiết để xây dựng chính sách quản lý hiệp với điều kiện kinh dinh của các doanh nghiệp có hạ tầng và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cũng như thúc đẩy sự phát triển của công nghệ và các dịch vụ mới để mang đến cho người sử dụng những tiện ích tốt, ăn nhập với nhu cầu và đảm bảo an toàn an ninh thông báo.
Diễm Hương tổng hợp
|
0 Nhận xét